Xuất nhập khẩu (XNK) có vai trò quan trọng trong nền kinh tế của tất cả các nước trên thế giới. Ở Việt Nam, nguồn thu từ thuế xuất nhập khẩu đóng góp một phần đáng kể vào ngân sách nhà nước. Chính sách thuế XNK không ngừng biến đổi, đặc biệt là sau khi Việt Nam gia nhập WTO đã ảnh hưởng nhiều đến quá trình phát triển đất nước. Với mục đích hiểu rõ hơn về ảnh hưởng chính sách thuế XNK của Việt Nam trước và sau khi gia nhập WTO tới nền kinh tế, chúng em đã quyết định làm tiểu luận về đề tài này. Mục tiêu của bài tiểu luận mà chúng em hướng tới đó là: • So sánh chính sách thuế XNK của nhà nước trước và sau khi gia nhập WTO để thấy được điểm đổi mới trong quá trình phát triển kinh tế đất nước. • Từ những chính sách thuế mới thì cơ hội, khó khăn cho Việt Nam là gì. • Tìm hiểu một một ví dụ về thuế xuất nhập khẩu đối với mặt hàng ô tô để thấy rõ sự biến đổi của nó trước, sau khi gia nhập WTO, ảnh hưởng của chính sách đó. Phương pháp nghiên cứu: tổng hợp, thống kê, phân tích. Phạm vi nghiên cứu : 10 năm trở lại đây
Xuất nhập khẩu (XNK) có vai trò quan trọng trong nền kinh tế của tất cả các nước trên thế giới. Ở Việt Nam, nguồn thu từ thuế xuất nhập khẩu đóng góp một phần đáng kể vào ngân sách nhà nước. Chính sách thuế XNK không ngừng biến đổi, đặc biệt là sau khi Việt Nam gia nhập WTO đã ảnh hưởng nhiều đến quá trình phát triển đất nước. Với mục đích hiểu rõ hơn về ảnh hưởng chính sách thuế XNK của Việt Nam trước và sau khi gia nhập WTO tới nền kinh tế, chúng em đã quyết định làm tiểu luận về đề tài này. Mục tiêu của bài tiểu luận mà chúng em hướng tới đó là: • So sánh chính sách thuế XNK của nhà nước trước và sau khi gia nhập WTO để thấy được điểm đổi mới trong quá trình phát triển kinh tế đất nước. • Từ những chính sách thuế mới thì cơ hội, khó khăn cho Việt Nam là gì. • Tìm hiểu một một ví dụ về thuế xuất nhập khẩu đối với mặt hàng ô tô để thấy rõ sự biến đổi của nó trước, sau khi gia nhập WTO, ảnh hưởng của chính sách đó. Phương pháp nghiên cứu: tổng hợp, thống kê, phân tích. Phạm vi nghiên cứu : 10 năm trở lại đây
Xuất khẩu tư bản tồn tại dưới nhiều hình thức, nếu xét cách thức đầu tư thì có đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp:
Nếu xét theo chủ sở hữu, có xuất khẩu tư bản nhà nước và xuất khẩu tư bản tư
– Xuất khẩu tư bản nhà nước là hình thức xuất khẩu tư bản mà nhà nước tư sản lấy tư bản từ ngân quỹ của mình đầu tư vào nước nhập khẩu tư bản, hoặc viện trợ hoàn lại hay không hoàn lại để thực hiện những mục tiêu về kinh tế, chính trị và quân sự.
Về kinh tế, xuất khẩu tư bản nhà nước thường hướng vào các ngành thuộc kết cấu hạ tầng để tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư tư bản tư nhân.
Về chính trị, viện trợ của nhà nước tư sản nhằm cứu vãn chế độ chính trị thân cận đang bị lung lay hoặc tạo ra mối liên hệ phụ thuộc lâu dài.
Về quân sự, viện trợ của nhà nước tư sản nhằm lôi kéo các nước phụ thuộc vào các khối quân sự hoặc buộc các nước nhận viện trợ phải đưa quân tham chiến chống nước khác, cho nước xuất khẩu lập căn cứ quân sự trên lãnh thổ của mình hoặc đơn thuần để bán vũ khí. (Tiểu Luận: Xuất khẩu tư bản ở Việt Nam)
– Xuất khẩu tư bản tư nhân là hình thức xuất khẩu tư bản do tư bản tư nhân thực hiện. Ngày nay, hình thức này chủ yếu do các công ty xuyên quốc gia tiến hành thông qua hoạt động đầu tư kinh doanh. Hình thức xuất khẩu tư bản tư nhân có đặc điểm là thường được đầu tư vào các ngành kinh tế có vòng quay tư bản ngắn và thu được lợi nhuận độc quyền cao. Xuất khẩu tư bản tư nhân là hình thức chủ yếu của xuất khẩu tư bản, có xu hướng tăng nhanh, chiếm tỷ lệ cao trong tổng tư bản xuất khẩu. Nếu những năm 70 của thế kỷ XX, xuất khẩu tư bản tư nhân đạt trên 50% thì đến những năm 80 của thế kỷ này nó đã đạt tỷ lệ 70% trong tổng tư bản xuất khẩu.
Nếu xét về cách thức hoạt động , có các chi nhánh của các công ty xuyên quốc gia, hoạt động tài chính tín dụng của các ngân hàng hay các trung tâm tín dụng và chuyển giao công nghệ, trong đó, hoạt động dưới hình thức chuyển giao công nghệ là biện pháp chủ yếu mà các nước xuất khẩu tư bản thường sử dụng để khống chế nền kinh tế của các nước nhập khẩu tư bản. Xuất khẩu tư bản về thực chất là hình thức mở rộng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trên phạm vi quốc tế, là sự bành trường thế lực của tư bản tài chính nhằm bóc lột nhân dân lao động thế giới, làm cho các nước nhập khẩu tư bản bị bóc lột gía trị thặng dư, cơ cấu kinh tế què quặt, lệ thuộc vào nền kinh tế nước tư bản chủ nghĩa. Từ đó làm cho mâu thuẫn kinh tế – xã hội gia tăng.
Trong hơn một thập kỷ trở lại đây, quá trình toàn cầu hoá kinh tế đã được thúc đẩy với một tốc độ nhanh và ngày càng toàn diện hơn, vừa tạo cơ hội vừa đặt ra thách thức đối với mọi quốc gia, nhất là các nước đang phát triển như Việt Nam. Trong bối cảnh tự do hoá thương mại và toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đang trong quá trình cơ cấu lại có thể tạo nhiều cơ hội cho Việt Nam phát triển.Việt Nam cần có chiến lược kinh tế đối ngoại rộng mở, nhất quán, thực hiện chính sách kinh tế linh hoạt, thích ứng nhanh với môi trường thế giới đang thay đổi nhanh chóng và có thể tận dụng kịp thời các cơ hội. Trong quá trình toàn cầu hoá, vai trò của các công ty đa và xuyên quốc gia ngày càng to lớn, vì một mặt là động lực thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế thế giới, thúc đẩy phát triển nền công nghệ, kỹ thuật hiện đại, mặt khác ảnh hưởng tới tính ổn định của nền kinh tế thế giới và đặt yêu cầu về sự thay đổi cách nhìn nhận đối với chủ quyền quốc gia, khi hiệp định đầu tư đa phương chính thức phê chuẩn. Việc thu hút các công ty xuyên quốc gia vào đầu tư tại Việt Nam là rất cần thiết, nhưng thách thức đặt ra cho Việt Nam là phải có lực lượng, nhất là nguồn lực con người thật tốt và có sách lược khôn khéo để tiếp nhận công nghệ hiện đại từ các công ty này, đồng thời phải nắm vững luật pháp và thông lệ quốc tế, chuẩn bị tốt khung pháp luật và thể chế trong nước một cách có hiệu quả để quản lý tốt các công ty thuộc loại hình này, nếu không nền kinh tế sẽ bị lệ thuộc và bị chi phối của các công ty này, không đảm bảo được sự phát triển bền vững và thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Thu hút đầu tư nước ngoài nhằm tạo ra nguồn lực để phát triển kinh tế và tạo việc làm cho người lao động là xu hướng quan trọng đối với nhiều quốc gia. FDI là phương hướng quan trọng đối với tăng trưởng, phát triển kinh tế ở Việt Nam và trong quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế, nắm chắc khoa học và công nghệ cho sự phát triển nền kinh tế chính là chìa khoá cho sự phát triển. Là chìa khoá cho sự phát triển rất cần thị trường phát triển, năng động và quản lý kinh tế có hiệu quả.
Năm 2003 là nửa chặng đường thực hiện các mục tiêu của Đại hội IX đã đề ra. Cho đến nay, tiến độ thực hiện chưa đáp ứng các mục tiêu của đại hội. Phải phấn đấu cao hơn nữa nhằm thực hiện mục tiêu cao cả xây dựng một nền kinh tế phồn vinh, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. (Tiểu Luận: Xuất khẩu tư bản ở Việt Nam)
Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://hotrovietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: [email protected]
0%0% found this document useful, Mark this document as useful
0%0% found this document not useful, Mark this document as not useful
Tiểu Luận Xuất Khẩu Tư Bản Ở Việt Nam.doc Dịch vụ hỗ trợ viết đề tài điểm cao LUANVANPANDA.COM Zalo / Tel: 0932.091.562 Read less
Tiểu luận của nhóm Hội Ngộ, ĐH Công Nghiệp TP HCM, 2014Read less
Ngày nay , trong điều kiện lịch sử mới, xuất khẩu tư bản đã có sự biến đổi lớn.
Thứ nhất là hướng xuất khẩu tư bản đã có sự thay đổi cơ bản. Trước kia, luồng tư bản xuất khẩu chủ yếu từ các nước tư bản phát triển sang các nước kém phát triển ( chiếm tỷ trọng trên 70% ). Nhưng những thập kỷ gần đây đại bộ phận dòng đầu tư lại chảy qua lại giữa các nước tư bản phát triển với nhau. Tỷ trọng xuất khẩu tư bản giữa ba trung tâm tư bản chủ nghĩa tăng nhanh, đặc biệt dòng đầu tư chảy mạnh theo hướng từ Nhật Bản vào Mỹ và Tây Âu, cũng như từ Tây Âu chảy sang Mỹ làm cho luồng xuất khẩu tư bản vào các nước đang phát triển giảm mạnh, thậm chí chỉ còn 16,8% (1996) và hiện nay khoảng 30%. Trước tình hình đó, nhiều nhà lý luận tư sản cho rằng, xuất khẩu tư bản không còn là thủ đoạn và phương tiện mà các nước giàu dùng để bóc lột các nước nghèo. Theo họ, xuất khẩu tư bản đã trút bỏ bản chất cũ của nó và trở thành hình thức hợp tác cùng có lợi trong mối quan hệ quốc tế.Sự hợp tác này diễn ra chủ yếu giữa các nước tư bản phát triển với nhau. Đó là quan niệm hoàn toàn sai lầm.
Như đã biết, cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã tạo ra những biến đổi nhảy vọt trong sự phát triển của lực lượng sản xuất. Vào những năm 80 của thế kỷ XX, nhiều ngành công nghiệp mới ra đời và phát triển thành các ngành mũi nhọn như : ngành công nghệ sinh học, ngành chế tạo vật liệu mới, ngành bán dẫn và vi điện tử, ngành vũ trụ và đại dương… Những ngành này có thiết bị và quy trình công nghệ hiện đại, tiêu tốn ít nguyên, nhiên vật liệu. Trong nền kinh tế giữa các nước tư bản phát triển đã diễn ra sự biến đổi cơ cấu các ngành sản xuất mũi nhọn có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao. Sự xuất hiện những ngành nghề mới đã tạo ra nhu cầu đầu tư hấp dẫn vì trong thời gian đầu nó tạo ra lợi nhuận siêu ngạch rất cao. Việc tiếp nhận kỹ thuật mới chỉ diễn ra ở các nước tư bản phát triển vì các nước đang phát triển có hạ tầng kinh tế xã hội lạc hậu , không phù hợp, tình chính trị kém ổn định, sức mua kém, tỷ suất lợi nhuận của tư bản đầu tư không còn cao như trước (còn với nước đang phát triển nhưng đã trở thành Nics thì tỷ trọng của luồng tư bản xuất khẩu vẫn lớn: chiếm 80% tổng tư bản xuất khẩu của các nước đang phát triển). Mặt khác thời gian này, xu hướng liên kết các nền kinh tế ở các trung tâm tư bản chủ nghĩa phát triển rất mạnh. Hệ qủa của hoạt động này bao giờ cũng hình thành các khối kinh tế với những đaọ luật bảo hộ rất khắt khe. Để nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường, các công ty xuyên quốc gia đã biến các doanh nghiệp chi nhánh của mình thành một bộ phận cấu thành của khối kinh tế mới nhằm tránh đòn thuế quan nặng của các đạo luật bảo hộ. Nhật và Tây Âu đã tích cực đầu tư vào thị trường Mỹ bằng cách đó. (Tiểu Luận: Xuất khẩu tư bản ở Việt Nam)
Sự biến động về địa bàn và tỷ trọng đầu tư của các nước tư bản phát triển không làm cho bản chất của xuất khẩu tư bản thay đổi , mà chỉ làm cho hình thức và xu hướng của xuất khẩu tư bản thêm phong phú và phức tạp hơn. Sự xuất hiện các ngành mới có hàm lượng khoa học – công nghệ cao ở các nước tư bản phát triển bao giờ cũng dẫn đến cấu tạo hữu cơ của tư bản tăng cao và điều đó tất yếu dẫn đến tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm xuống. Hiện tượng thừa tư bản tương đối, hệ quả của sự phát triển đó là không thể tránh khỏi. Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ của các thiết bị quy trình công nghệ mới đã dẫn đến sự loại bỏ các thiết bị và công nghệ lạc hậu ra khỏi quá trình sản xuất trực tiếp (do bị hao mòn hữu hình và vô hình). Đối với nền kinh tế thế giới đang phát triển, những tư liệu sản xuất này rất có ích và vẫn là kỹ thuật mới mẻ. Nhằm mục đích thu lợi nhuận độc quyền cao, các tập đoàn tư bản độc quyền đưa các thiết bị đó sang các nước đang phát triển dưới hình thức chuyển giao công nghệ. Rõ ràng, khi chủ nghĩa đế quốc còn tồn tại thì xuất khẩu tư bản từ các nước tư bản phát triển sang các nước đang phát triển là điều không tránh khỏi. Xét trong một giai đoạn phát triển nhất định, có thể diễn ra sự thay đổi tỷ trọng tư bản đầu tư vào khu vực nào đó của thế giới, nhưng phân tích một thời kỳ dài hơn của quy mô thế giới cho thấy: xuất khẩu tư bản vẫn là vũ khí chủ yếu mà tư bản độc quyền sử dụng để bành trướng ra nước ngoài. Tình trạng nợ nần của các nước đang phát triển ở châu Á, Phi, Mỹ Latinh là thực tế chứng minh cho kết luận trên.
Thứ hai là chủ thể xuất khẩu tư bản có sự thay đổi lớn, trong đó vai trò các công ty xuyên quốc gia trong xuất khẩu tư bản ngày càng to lớn, đặc biệt là trong FDI . Mặt khác, đã xuất hiện nhiều chủ thể xuất khẩu tư bản từ các nước đang phát triển mà nổi bật là các Nics châu Á.
Thứ ba là hình thức xuất khẩu tư bản rất đa dạng, sự đan quyện giữa xuất khẩu tư bản và xuất khẩu hàng hoá tăng lên. Chẳng hạn, trong đầu tư trực tiếp xuất hiện những hình thức mới như BOT, BT… sự kết hợp giữa xuất khẩu tư bản với các hợp đồng buôn bán hàng hoá, dịch vụ, chất xám không ngừng tăng lên. (Tiểu Luận: Xuất khẩu tư bản ở Việt Nam)
Thứ tư là sự áp đặt mang tính thực dân trong xuất khẩu tư bản đã được gỡ bỏ dần và nguyên tắc cùng có lợi được đề cao.
Ngày nay, xuất khẩu tư bản luôn thể hiện kết quả hai mặt. Một mặt, nó làm cho các quan hệ tư bản chủ nghĩa được phát triển và mở rộng ra trên địa bàn quốc tế, góp phần thúc đẩy nhanh chóng quá trình phân công lao động và quốc tế hoá đời sống kinh tế của nhiều nước; là một trong những nhân tố cực kỳ quan trọng tác động từ bên ngoài vào làm cho quá trình công nghiệp hoá và tái công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở các nước nhập khẩu tư bản phát triển nhanh chóng . Song mặt khác, xuất khẩu tư bản vẫn để lại cho các quốc gia nhập khẩu tư bản, nhất là với các nước đang phát triển những hậu quả nặng nề như: nền kinh tế phát triển mất cân đối và lệ thuộc, nợ nần chồng chất do bị bóc lột quá nặng nề. Song điều này tuỳ thuộc một phần rất lớn vào vai trò quản lý của nhà nước ở các nước nhập khẩu tư bản. Lợi dụng mặt tích cực của xuất khẩu tư bản , nhiều nước đã mở rộng việc tiếp nhận đầu tư để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá ở nứơc mình. Vấn đề đặt ra là phải biết vận dụng mềm dẻo,linh hoạt , nguyên tắc cùng có lợi, lựa chọn phương án thiết thực, để khai thác nguồn lực quốc tế có hiệu quả.