Được vun đắp từ tình yêu với biển cả, Khải Hoàn đã hiện thực hóa thành công quy trình sản xuất nước mắm truyền thống. Từ khai thác – bảo quản – vận chuyển – ủ chượp hoàn toàn khép kín. Mang nguồn nguyên liệu sạch từ biển cả đến bàn ăn. Giữ trọn vẹn sự tươi ngon, đảm bảo độ đạm, màu và mùi vị thơm ngon đặc trưng.
Được vun đắp từ tình yêu với biển cả, Khải Hoàn đã hiện thực hóa thành công quy trình sản xuất nước mắm truyền thống. Từ khai thác – bảo quản – vận chuyển – ủ chượp hoàn toàn khép kín. Mang nguồn nguyên liệu sạch từ biển cả đến bàn ăn. Giữ trọn vẹn sự tươi ngon, đảm bảo độ đạm, màu và mùi vị thơm ngon đặc trưng.
Với triết lý hoạt động: “Phát huy làng nghề truyền thống, giữ vững chữ tín với khách hàng, an toàn khi sử dụng”. Và luôn luôn xem: “Truyền thống là danh dự”. Khải Hoàn là doanh nghiệp dẫn đầu nghề nước mắm truyền thống tại Việt Nam. Mục tiêu dài hạn là mang nước mắm của người Việt đến các bàn ăn trên khắp thế giới. Vươn xa tới các thị trường lớn trong khu vực và quốc tế.
Tại đảo ngọc Phú Quốc, Khải Hoàn tự hào sở hữu đội tàu lớn nhất Phú Quốc với hơn 26 chiếc tàu đánh bắt lớn nhỏ. Được chèo lái bởi các thuyền trưởng và thuyền viên có bề dày kinh nghiệm bậc nhất vùng. Mỗi chiếc tàu đều được trang bị các thiết bị hiện đại giúp hỗ trợ công tác đánh bắt và đảm bảo an toàn cho ngư dân. Nhờ đó quy trình sản xuất nước mắm truyền thống được chuẩn bị thật kỹ càng từ những bước đầu tiên.
Kiểm soát chất lượng nguồn nguyên liệu đầu vào là điểm đặc biệt mà Khải Hoàn luôn tập trung chú trọng. Cá cơm than được đánh bắt ở vùng đảo Thổ Chu (TP. Phú Quốc) là loại cá cơm đặc biệt có hàm lượng đạm cao. Muối được lấy từ vùng biển Bà Rịa Vũng Tàu tạo ra công thức nước mắm gia truyền chất lượng.
Những mẻ cá tươi vừa được đánh bắt và đưa lên tàu, nhanh chóng đi qua công đoạn rửa sạch. Loại bỏ tạp chất và sàng lọc cho ra nguyên liệu cá cơm than nguyên chất. Sau đó, cá nguyên liệu được trộn đều với muối theo tỷ lệ 3 cá : 1 muối ngay trên tàu để giữ độ tươi ngon. Hỗn hợp cá trộn muối được bảo quản trong hầm tàu, nắp hầm đậy kín và rút bỏ nước bổi ở đáy hầm.
Trải qua thời gian ủ đến khi chượp chín, bắt đầu chắt lọc để thu về nước mắm cốt. Quá trình này được gọi là kéo rút nước mắm long: mở nút lù để nước mắm chảy ra một cách chậm rãi. Sau đó đổ lại vào thùng và kéo rút nhiều lần cho đến khi nước mắm trong.
Trong suốt quá trình đó, Khải Hoàn liên tục kiểm tra và thử nghiệm nước mắm thành phẩm để đạt được độ đạm và chất lượng tiêu chuẩn.
Song song đó, nhằm đảm bảo từng sản phẩm đến tay người tiêu dùng đạt được chất lượng tốt nhất, Khải Hoàn đầu tư xây dựng hệ thống phòng lab để phục vụ cho quy trình kiểm định liên tục. Xuất thân từ ngành y, bác sĩ Hồ Kim Liên (Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Thương mại Khải Hoàn) luôn chú trọng đến vấn đề đảm bảo an toàn chất lượng và vệ sinh thực phẩm. Bà đã có 20 năm nghiên cứu về nước mắm với 4 đề tài nghiên cứu khoa học được xuất bản, đưa sản phẩm Khải Hoàn chất lượng 5 sao đến với thị trường như hiện tại.
Với quy mô hơn 900 thùng ủ chượp với sức chứa trung bình 12 tấn. Đặt tại 3 nhà xưởng có diện tích hơn 28,000 mét vuông. Khải Hoàn trở thành nhà thùng có quy trình sản xuất nước mắm truyền thống quy mô lớn nhất tại đảo Phú Quốc.
Hỗn hợp cá muối được bốc dỡ từ hầm tàu sẽ chuyển vào thùng chượp gỗ bời lời được vệ sinh kỹ lưỡng để giữ mùi vị và màu sắc của nước mắm nguyên bản. Cá được ủ trung bình từ 12 – 15 tháng ở điều kiện tự nhiên, không dùng bất kỳ chất xúc tác nào để có thể cho ra những giọt nước mắm tròn vị.
Những giọt nước mắm cốt đầu tiên được đóng chai và đưa đến tay người tiêu dùng sau quy trình sản xuất nước mắm truyền thống. Trong quá trình đóng chai, thiết bị chứa đựng được khử khuẩn bằng tia UV và vào chai, đóng nắp bằng dây chuyền tự động đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Nắp chai cũng được Khải Hoàn nghiên cứu và nhập khẩu từ Nhật Bản, giúp kéo dài thời gian bảo quản, đảm bảo chất lượng nước mắm và giữ cho sản phẩm nguyên vẹn trong quá trình vận chuyển.
Với thành phần 100% cá cơm và muối biển tự nhiên, không chứa chất bảo quản, không chất tạo màu và hương liệu nhân tạo, nước mắm truyền thống Phú Quốc chỉ dẫn địa lý Khải Hoàn được bảo hộ tại hơn 28 thị trường các nước thuộc liên minh Châu Âu, mang màu sắc và mùi vị thơm ngon đặc trưng.
Mỗi sản phẩm của Khải Hoàn được làm ra từ tinh túy của đảo ngọc Phú Quốc. Kết tinh từ những giá trị truyền thống của ông cha cùng nỗ lực nghiên cứu và cải tiến không ngừng để bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng. Với quy trình sản xuất nước mắm truyền thống khép kín “từ biển cả tới bàn ăn”, Khải Hoàn là nhà sản xuất nước mắm truyền thống có đầu tư đội tàu lớn nhất. Hệ thống nhà thùng và nhà xưởng chuyên nghiệp, hoạt động nghiên cứu khoa học liên tục với đội ngũ nhân lực chuyên môn sâu để duy trì và đảm bảo chất lượng nước mắm tốt nhất, ngon nhất vì sự tin yêu của người tiêu dùng.
Khải Hoàn tự hào là nhà sản xuất nước mắm truyền thống dẫn đầu với các sản phẩm chất lượng đạt chứng nhận kiểm định tại việt nam và quốc tế. Nước mắm Truyền thống Khải Hoàn luôn mang đến tay Quý khách hàng những sản phẩm chất lượng từ công đoạn đánh bắt đến quy trình chế biến và đóng chai thành phẩm.
Từng sản phẩm của Khải Hoàn đều mang trong mình sự nỗ lực và tâm huyết của toàn thể đội ngũ nhân viên Khải Hoàn. Nhằm mang đến những giá trị chân thật cho nước mắm truyền thống Phú Quốc, vì với chúng tôi Truyền thống chính là Danh dự.
Nước mắm truyền thống Phú Quốc Khải Hoàn luôn luôn gìn giữ kim chỉ nam Truyền Thống – Khoa Học – Chất Lượng. Khải Hoàn là doanh nghiệp dẫn đầu nghề nước mắm truyền thống tại Việt Nam, đã trải qua 3 thế hệ với hơn 40 năm gầy dựng và phát triển giúp nước mắm truyền thống Phú Quốc được vinh danh trở thành một “di sản” của Phú Quốc và của Việt Nam. Khải Hoàn luôn phát huy làng nghề truyền thống, giữ vững chữ tín với khách hàng an toàn khi sử dụng.
Khải Hoàn Phú QuốcTruyền thống là danh dự
Qua bàn tay khéo léo của người làm nghề truyền thống Phú Quốc, những con cá cơm giàu đạm, tươi ngon ở vùng đảo ngọc trở thành gia vị chấm đậm đà, không thể thiếu trong bữa cơm người Việt.
Nghề làm nước mắm xuất hiện ở Phú Quốc, Kiên Giang cách đây hơn 200 năm. Ban đầu, do cá đánh bắt được nhiều, tiêu thụ không hết, ngư dân nghĩ ra cách bảo quản cá bằng muối, sau đó, tiếp tục sáng tạo nên phương pháp kéo rút để lấy nước mắm. Trong khi ở khu vực miền Bắc và miền Trung, người dân sử dụng các loại cá nhâm, thu, nục, quẩn hay cá trích… để ủ làm mắm thì tại Phú Quốc, nguyên liệu chính được sử dụng lại là cá cơm. Loại cá này ít xuất hiện tại các vùng biển, tập trung chủ yếu ở vùng Vịnh Thái Lan và quanh đảo ngọc Phú Quốc.
Theo kinh nghiệm của bà con huyện đảo, cá cơm làm nước mắm cho chất lượng thơm ngon, độ đạm cao, màu đẹp hơn các loại cá khác. Bên cạnh đó, để tạo ra sản phẩm trứ danh này, những người làm nghề ở Phú Quốc phải kỳ công chọn nguyên liệu, ủ chượp, kéo rút mắm thành phẩm.
Nước mắm Phú Quốc có hương vị đặc biệt nhờ nguồn nguyên liệu tươi ngon và phương pháp chế biến riêng. Ảnh: Bizmedia.
Về nguồn nguyên liệu, cá cơm gồm các loại cơm than, cơm đỏ, sọc tiêu, phấn chì…, được đánh bắt ở vùng biển Kiên Giang, Cà Mau thuộc Vịnh Thái Lan. Muối dùng để ướp cá là muối biển, có hàm lượng tạp chất thấp, được lưu kho ít nhất 3 tháng để giảm bớt vị chát.
Sau khi đánh bắt, người dân sẽ làm sạch các loại cá cơm và ướp muối ngay trên tàu ở ngoài khơi để đảm bảo độ tươi ngon. Chỉ tới khi tàu cập bến, hỗn hợp này (chượp) mới được chuyển vào các thùng gỗ làm từ cây bời lời, sao… để ủ theo phương pháp gài nén. Sau 9 đến 15 tháng, các chượp sẽ cho ra nước mắm thành phẩm nhờ phương pháp kéo rút chuyên nghiệp. Nước mắm Phú Quốc có màu cánh gián, nâu đỏ đặc trưng, tự nhiên nhờ cách ướp tươi cá và thời gian ủ lâu dài trong thùng gỗ.
Với quy trình sản xuất kỳ công, người Phú Quốc đã tạo ra loại nước mắm có mùi thơm dịu, vị béo tự nhiên, độ sánh nhất định và kích thích cảm giác thèm ăn. Ngay khi thưởng thức, bạn sẽ cảm thấy vị đậm đà nơi đầu lưỡi xen lẫn ngọt thanh. Sản phẩm nước mắm Phú Quốc được cấp văn bằng quốc gia bảo hộ chỉ dẫn địa lý vào năm 2001 và được Uỷ ban châu Âu cấp văn bằng bảo hộ tên gọi xuất xứ địa lý vào năm 2013.
Là gia vị truyền thống, độc đáo của người Việt, nước mắm trở thành thứ nước chấm không thể thiếu trong bữa cơm của mỗi gia đình. Du khách đến Kiên Giang hay huyện đảo Phú Quốc thường chọn mua loại nước mắm nổi tiếng nơi đây về làm quà tặng cho bạn bè và người thân.
Nước mắm theo cách hiểu thông thường là chắt phần nước rỉ được từ cá, tôm và xác động vật nhuyễn thể khác được ướp muối lâu ngày. Nó được sử dụng rộng rãi trong ẩm thực của các quốc gia Đông Nam Á như Việt Nam và Thái Lan, để chấm hoặc gia vị chế biến các món ăn khác.Tại miền nam Trung Quốc, nước mắm cũng được sử dụng, nhưng chỉ dùng để làm dầu hay gia vị trong các món súp và thịt hầm.Trên phương diện khoa học, nước mắm là hỗn hợp muối với các amino acid được chuyển thể từ protein trong thịt cá qua một quá trình thủy phân có tác nhân là các hệ enzyme có sẵn trong ruột cá cùng với một loại vi khuẩn kỵ khí chịu mặn.
Nước mắm châu Á thường được chế biến từ cá cơm, muối, và nước, và cần được tiêu thụ điều độ vì nó có vị rất mạnh. Nước mắm Thái Lan rất giống mắm Việt Nam và được gọi là nam pla (น้ำปลา). Tại Trung Quốc, nó được gọi là ngư lộ (魚露, yúlù), tại Triều Tiên eojang (어장), tại Indonesia kecap ikan và tại Philippines patis. Tại Nhật Bản, ba loại mắm được sử dụng; shottsuru(しょっつる) ở tỉnh Akita, ishiru(いしる) ở tỉnh Ishikawa, và ikanago-jōyu(いかなご醤油) ở tỉnh Kagawa.
Bã cá giống mắm ở Indonesia được gọi là trasi, tại Campuchia prahok (bò hóc) và thường dùng cá đã để hơi ươn trước khi ướp muối. Người Mã Lai cũng có cục gạnh cá gọi là belacan.
Mắm Lào được gọi là padek, được chế biến từ cá nước ngọt.
Có một loại nước mắm cũng đã từng phổ biến ở thời La Mã cổ đại, tiếng Latin gọi là garum hoặc liquamen, và cũng tồn tại trong nhiều loại nước chấm như oxygarum (pha với giấm), meligarum (pha với mật ong),... Nước mắm cũng là một trong những đặc sản ở vùng Hispania Baetica.
Trong tiếng Anh, nó được gọi là fish sauce. Nước chấm Worcestershire ở Anh là một sản phẩm tương tự, loại nước chấm này được mang từ Ấn Độ sang Anh Quốc. Ngày nay, người ta dùng cá trống để làm garum, nhưng không được lên men.
Có thể nói Việt Nam từ thời xa xưa đã là xứ sở của các loại mắm. Từ mắm nêm, mắm phệt, mắm cáy, mắm ruốc, mắm tôm đến các loại mắm lóc, mắm sặt, khô mắm, khô mặn v.v... cho đến loại mắm đặc biệt là mắm nước thường được gọi là nước mắm. Nước mắm có thể làm từ cá sống, cá khô; hoặc từ cả các loại sò hến, tôm cua hoặc trái cây như quả điều khi làm nước mắm chay. Một số loại nước mắm được làm từ cá nguyên con, một số khác thì chỉ được từ tiết hay nội tạng cá. Một số loại nước mắm chỉ có cá và muối, một số khác có thể có thêm dược thảo và gia vị. Nước mắm lên men ngắn ngày có mùi tanh đặc trưng của cá. Quá trình lên men dài ngày sẽ giảm được mùi tanh và tạo ra hương vị mùi quả hạch và béo hơn.
Tại Việt Nam, suốt miền duyên hải đều làm nước mắm. Nước mắm thường chủ yếu làm từ các loại cá biển (cá cơm, cá thu, cá nục v.v.) và rút chiết ra dưới dạng nước. Tùy theo độ đạm trong nước mắm mà người ta phân cấp độ (nước mắm cốt, nước mắm loại 1, nước mắm loại 2). Chén nước mắm dùng chung giữa mâm cơm được coi là nét đặc trưng cho văn hoá chia sẻ trong ẩm thực Việt Nam.
Cuốn Việt sử đầu tiên có đề cập đến nước mắm có lẽ là cuốn Đại Việt sử ký toàn thư, khắc in vào năm Chính Hòa thứ 18 (1697). Trong Kỷ nhà Lê, phần viết về Đại Hành hoàng đế, sách này có ghi lại sự kiện: "Đinh Dậu, Ứng Thiên năm thứ 4 (997)... Mùa hạ, tháng 4, nhà Tống phong vua làm Nam Bình Vương. Vua sai sứ sang nước Tống đáp lễ. Vua Tống ban chiếu thư khen ngợi. Trước kia, sứ Tống sang thường mượn cớ đòi cống nước mắm, nhân thế bắt đóng góp. Đến đây, Tống Chân Tông nghe biết chuyện ấy, chỉ sai quan giữ biên giới gọi đến nhận mệnh, không sai sứ sang nữa." Đoạn sử liệu này cho thấy muộn nhất là vào trước năm 997, người Việt đã biết làm và dùng nước mắm và nước mắm đã được lưu vào sử sách. Bấy giờ, nước mắm do người Việt làm ra hẳn phải là một loại đặc sản có tiếng, khiến vua chúa Trung Hoa tuy ở xa vạn dặm, cũng "ngửi thấy" mùi thơm của nước mắm, nên mới đòi triều đình Đại Việt phải triều cống nước mắm cho họ. Khi đọc đến đoạn ghi chép này trong Đại Việt sử ký toàn thư, nhà nghiên cứu Phạm Hoàng Quân đã nêu một câu hỏi rất thú vị: "Người Trung Hoa không có truyền thống ăn nước mắm, mà họ ăn nước tương, sao lại đòi cống nước mắm? Hay là thời Tiền Lê, nước mắm Việt hiếm hoi trân quý đến mức người ta phải lấy nó để bắt chẹt nhau?" Quả đúng như vậy, vì người Tàu ăn xì dầu, coi món nước chấm làm từ đậu nành này là thứ gia vị căn cốt của họ, khiến cho món ăn Tàu nhìn bên ngoài có vẻ giống với món ăn Việt, kỳ thực lại khác nhau một trời một vực, như nhận xét của M. Coughlin rằng: "Mặc dù người Việt Nam ăn bằng đũa và thức ăn của họ thì khó phân biệt được với đồ ăn của Trung Hoa đối với một người Tây phương bình thường, đã có nhiều sự khác biệt và các sự biến cải theo khẩu vị địa phương. Nước chấm căn bản – nước mắm, món gia vị trong mọi bữa ăn, thì đặc biệt là của người Việt Nam và hoàn toàn khác với nước tương, nước chấm gia vị tiêu chuẩn của Trung Hoa."[1][2]
Nhà hàng hải người Anh William Dampier trong chuyến ghé Đàng Ngoài năm 1688 có ghi lại cách sản xuất nước mắm khi ngư dân trộn cá và tôm với muối và nước rồi nén trong hũ đậy kín. Sau một thời gian xác tôm cá nhừ nát ra thì người Việt gạn ra phần nước dùng, gọi là nuke-mum. Người nghèo thì ăn phần bã mắm với cơm. Phần nước màu nâu nhạt, ngả màu xám nhưng trong suốt được mọi người ưa chuộng, ăn với thịt gà, thịt vịt rất ngon.[3]
Thống kê của Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (2016) cho biết khoảng gần 2.800 doanh nghiệp vừa và nhỏ làm nước mắm truyền thống. Việt Nam sản xuất 200 triệu lít nước mắm mỗi năm, trong đó 75% là nước mắm công nghiệp (nước mắm pha loãng với hóa chất). Chỉ riêng công ty Masan chiếm 65% thị phần toàn ngành nước mắm.[4][5]
Cách chế biến nước mắm truyền thống của người Việt là ủ chượp theo phương pháp gài nén. Cá được trộn đều với muối ăn theo tỷ lệ xấp xỉ 3:1 (gọi là chượp) rồi cho vào thùng gỗ lớn, dung tích thường dùng từ 2,5 – 8 m³, rồi rải muối gài nẹp đè đá bên trên để nén. Sau 2 – 4 ngày thì mở nút lù dưới đáy thùng để hứng "nước bổi". Nội dung trong thùng chượp sau khi rút nước bổi sẽ xẹp xuống, nút lù được đóng lại và ủ từ 7 – 12 tháng. Khi chượp "chín", nước mắm hình thành trong suốt, có màu từ vàng rơm đến cánh gián, mất mùi tanh và thay vào đó có mùi thơm đặc trưng, được rút đợt đầu gọi là nước cốt hay "nước nhỉ". Phần bã còn lại được tra thêm nước bổi và muối rồi lại để lên men tiếp trước khi rút nước hai, nước ba. Những đợt nước sau nước cốt thì gọi là "nước ngang" hoặc "nước long"[6] và độ đạm giảm dần và phẩm chất càng kém. Nước mắm ngon phải để chượp chín 12 tháng mới rút nước cốt.[7]
Ở một số địa phương miền Bắc, như Cát Hải - Hải Phòng, cách chế biến phổ biến là đánh khuấy, theo đó cá trước khi trộn chượp có thể đập dập, sau thời gian khoảng 3 tháng thì đánh khuấy chượp để tăng tốc độ chín. Phương pháp này rút ngắn thời gian ủ chượp xuống 6 – 7 tháng, nhưng chỉ cho nước mắm có độ đạm thấp hơn phương pháp truyền thống.
Nước mắm sản xuất tại Việt Nam sang thế kỷ XXI đã công nghệ hóa nên nước bổi, nước cốt do nhà sản xuất cung cấp, thường được pha chế thêm để tăng sản lượng trước khi chai đóng chai đem bán, gọi là "nước mắm công nghiệp". Phương thức pha chế đó làm phần nước mắm cốt càng loãng, màu nhợt nhạt và mùi mắm mắm cũng phai nên phải bù vào bằng cách pha phẩm màu, tăng độ sánh, chế thêm hương liệu và các chất bảo quản để thành phẩm bắt mắt.[6] Vì vậy, danh từ "nước mắm nhỉ" tuy được dùng trên nhiều nhãn hiệu nhưng thật ra không còn nữa.[7] Tính đến năm 2019 thị phần nước mắm truyền thống chỉ khoảng 15 – 20% trong khi đó nước mắm công nghiệp thống lĩnh phần lớn tuyệt đối lượng tiêu thụ.[6]
Tiêu chí truyền thống để đánh giá chất lượng nước mắm nguyên chất là độ đạm – đạm tạo nên hậu vị ngòn ngọt đằng sau vị mặn của muối. Nếu muối có nhiều tạp thì nước mắm thường có vị chát, vị khé. Nên nước mắm ngon trước hết phải có vị mặn không chát kèm theo hậu vị đạm cao, sau đó phải có mùi đặc trưng mà không tanh, không thối.
Nước mắm nhĩ hay nước mắm nhỉ thì cũng đều là cách gọi để chỉ loại nước mắm cao cấp nhất, những giọt nước mắm đầu tiên được nhỏ giọt ra từ thùng ủ chượp sau một thời gian dài lên men của cá và muối. Vì vậy, người sản xuất nước mắm mới gọi những loại mắm từ những thùng này là nước mắm nhỉ hay còn có tên gọi khác là mắm nhĩ, tùy thuộc vào từng vùng miền khác nhau.
Tháng 10 năm 2016, báo Thanh Niên, và sau đó là Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam (Vinastas) đã công bố thông tin "cho thấy 67% nước mắm họ khảo sát có hàm lượng arsen tổng vượt ngưỡng cho phép." Thông tin này không rõ ràng về tỷ lệ nhiễm arsen trong nước mắm là vô cơ hay hữu cơ. Từ hai nguồn này, hàng chục cơ quan báo chí Việt Nam đã đăng 170 tin, bài công bố kết quả khảo sát có nội dung sai sự thật từ báo Thanh Niên và Vinastas.
12 giờ sau khi bài báo xuất hiện, Nguyễn Xuân Phúc yêu cầu các cơ quan kiểm tra tình trạng nước mắm công nghiệp có hoá chất thêm vào, báo cáo trước ngày 22/10/2016
Sau đó chính quyền và giới chuyên gia đính chính rằng arsen trong nước mắm là arsen hữu cơ, không ảnh hưởng xấu đến sức khỏe người tiêu dùng.
Ngày 21/11, Bộ Thông tin và Truyền thông Việt Nam công bố mức xử phạt vi phạm hành chính với 50 cơ quan báo chí. Bị phạt nặng nhất là tờ Thanh Niên, 200 triệu đồng - mức phạt tiền cao nhất đối với vi phạm hành chính trong hoạt động báo chí.[8]
Trước đó từ năm 2009 Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc (FAO) đã thông báo phân tích khối phổ về sáu loại nước mắm từ Việt Nam và Thái Lan, kết quả là tuy có arsenobetaine (82 – 94%), arsenocholine (4.9-7.7%), trimethylarsine oxide (0.7 – 7.8%), và trimethylarsenopropionate (0.5 – 2.1%) nhưng hợp tố độc hại như arsenite, arsenate, methylarsonic acid (MA) và dimethylarsinic acid (DMA) đều rất thấp, dưới mức có thể đo được.[9]
Ngày 9 tháng 3, Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản cùng Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường chất lượng vừa công bố văn bản Dự thảo Tiêu chuẩn Việt Nam 12607:2019 Quy phạm thực hành sản xuất nước mắm.
Nhiều tổ chức,đại diện nước mắm truyền thống kiến nghị gửi tờ trình đến Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, cho rằng Dự thảo Tiêu chuẩn nói trên "đang thiên về sự cổ súy cho sự phát triển nước mắm pha chế – nước mắm công nghiệp".
Sáng ngày 12 tháng 3, Thứ trưởng Bộ Khoa học - Công nghệ Phạm Công Tạc cho biết xác nhận tạm dừng thẩm định bản Dự thảo tiêu chuẩn sản xuất nước mắm vì chưa đảm bảo ba tiêu chuẩn: các yếu tố phù hợp với trình độ phát triển của đất nước, đảm bảo sự đồng thuận và đảm bảo hài hòa lợi ích của các bên liên quan. Bộ Nông nghiệp – Phát triển Nông thôn nói cũng sẽ tiếp tục lấy ý kiến các tổ chức xã hội, các hiệp hội về dự thảo tiêu chuẩn sản xuất nước mắm.[10]
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về