"Đất và người" là bộ phim ghi được dấu ấn sâu đậm với khán giả yêu mến bộ môn nghệ thuật thứ 7. Bộ phim được ra mắt năm 2002 và do Nguyễn Hữu Phần làm đạo diễn. Với kịch bản hay cộng với tài đạo diễn và diễn xuất của dàn diễn viên, "Đất và người" trở thành một trong những bộ phim xuất sắc nhất về đề tài nông thôn.
"Đất và người" là bộ phim ghi được dấu ấn sâu đậm với khán giả yêu mến bộ môn nghệ thuật thứ 7. Bộ phim được ra mắt năm 2002 và do Nguyễn Hữu Phần làm đạo diễn. Với kịch bản hay cộng với tài đạo diễn và diễn xuất của dàn diễn viên, "Đất và người" trở thành một trong những bộ phim xuất sắc nhất về đề tài nông thôn.
Ngoài đời, Hán Văn Tình được nhiều người quý mến bởi tính cách vui vẻ, hòa đồng. Nhưng không may, Hán Văn Tình bị ung thư phổi. Trong suốt quá trình chiến đấu với bệnh tật, Hán Văn Tình luôn giữ thái độ lạc quan. Nhưng cuối cùng, nghệ sĩ này cũng không chiến thắng được bệnh tật và trút hơi thở cuối cùng vào ngày 4/9 vừa qua.
Dù kiên cường nhưng Hán Văn Tình không thể chiến thắng bệnh tật
Trong phim "Đất và người" Tuấn Dương vào vai Cao - ông trưởng công an xã có phần ngờ nghệch, hiền lành. Gương mặt khắc khổ khiến ông thường được giao vai diễn trong các bộ phim về đề tài nông thôn. Ngoài ra, Tuấn Dương còn được khán giả nhớ mặt khi tham gia các bộ phim khác như: "Làng ven đô", "Chuyện đã qua", "Lập trình cho trái tim", ...
Tuấn Dương vào vai Cao - ông trưởng công an xã trong phim "Đất và người"
Cuộc đời riêng của nghệ sĩ Tuấn Dương gặp nhiều éo le. Ông kết hôn muộn, lại không có con. Năm 2013, ông qua đời vì ung thư thực quản, hưởng thọ 61 tuổi.
Diễn viên Tuấn Dương khi nằm trên giường bệnh
Nhắc đến diễn viên chuyên đóng vai phản diện không thể bỏ qua nghệ sĩ Duy Thanh. Trong phim "Đất và người" Duy Thanh vào vai bí thư Đảng ủy, người nắm quyền hành và thích thao túng mọi việc trong làng bằng thủ đoạn.
Duy Thanh ghi được dấu ấn khi vào vai bí thư Đảng ủy
Nhiều năm nay, Duy Thanh vẫn đang âm thầm chiến đấu chống lại bệnh ung thư phổi. Hiện tại, tình trạng sức khỏe của Duy Thanh tiến triển không mấy khả quan, thực quản bị chèn ép khiến ông không ăn được, dẫn đến tình trạng sụt cân và suy nhược. Dù mắc bạo bệnh nhưng ông vẫn nặng lòng với những vai diễn của mình và luôn tâm niệm sẽ tiếp tục nghiệp diễn ngay khi sức khỏe dần ổn định trở lại.
Ông đang điều trị tại bệnh viện Thanh Nhàn.
Nhân vật trưởng họ Trịnh - ông Hàm trong phim "Đất và người" được giao cho diễn viên Duy Hậu. Trong phim, Duy Hậu đại diện cho thói gia trưởng, phong kiến và cũng đầy những âm mưu thủ đoạn nhưng ở ngoài ông lại là người hiền lành.
Nam diễn viên này còn tham gia vào nhiều bộ phim nổi tiếng của điện ảnh Việt như: "Sóng ở đáy sông", "Những ngọn nến trong đêm"...
Cảnh đời cô đơn của Duy Hậu khiến nhiều người xót xa
Cuộc sống của Duy Hậu ngoài đời cũng có nhiều trắc trở. Vợ con đi nước ngoài nhưng không trở về khiến ông phải sống cuộc đời cô đơn. Đạo diễn Nguyễn Hữu Phần từng cho biết, có thời gian dài Duy Hậu ốm nặng nhưng nay đã phục hồi.
Trong phim, Hồng Minh vào vai Tùng - nhân vật đại diện cho cái mới. Là cháu của ông Vũ Đình Phúc - "kẻ thù" của ông Hàm - nên tình duyên của Tùng và con gái của ông Hàm (Đào, do Thanh Giang đóng) gặp không ít trắc trở. Mối tình của họ cũng đẩy mối thâm thù giữa hai dòng họ Trịnh - Vũ thêm sâu sắc.
Sau phim "Đất và người", Hồng Minh cũng tham gia một số bộ phim truyền hình. Năm 2014, anh đóng vai chính trong bộ phim "Bánh đúc có xương" với ngoại hình không khác nhiều so với thời điểm trước.
Hồng Minh trong phim "Bánh đúc có xương"
Thanh Giang vào vai Đào, con gái của ông Hàm có mối tình đầy trắc trở với Tùng bởi hai dòng họ Trịnh - Vũ đã có mâu thuẫn từ lâu. Nữ diễn viên sau đó tham gia một số phim như “Hương đất” hay “Cỏ lông chông”. Hiện tại, Thanh Giang có một tổ ấm hạnh phúc và hiếm khi tham gia các hoạt động giải trí.
Diễn viên Thanh Giang trong phim
Sau khi kết hôn, Thanh Giang dành nhiều thời gian để chăm sóc tổ ấm của mình.
Diễn viên Vi Cầm đảm nhiệm một vai khá thú vị là Mận, cô con út của ông Hàm. Sau đó nữ diễn viên tay ngang này chinh phục màn ảnh qua hàng loạt vai diễn ấn tượng trong: "Chuyện phố phường", "Hai phía chân trời"... Theo học khoa violin tại Nhạc viện Hà Nội nên đóng phim với Vi Cầm luôn xếp sau âm nhạc. Được biết, Vi Cầm đã chia tay chồng và làm mẹ đơn thân.
Nghệ sĩ Phát Triệu vào vai Phúc - chủ tịch xã. Phát Triệu từng tham gia nhiều phim với vai hiền lành, chân chất như trong "Gió qua miền tối sáng"... Ông là chồng của NSƯT Tuyết Mai. Cả hai cặp vợ chồng nghệ sĩ đều giản dị và gắn bó với màn ảnh Việt từ thời cách mạng đến nay.
Vợ chồng nghệ sĩ Phát Triệu - Tuyết Mai
Phú Đôn vào vai Quàng - em trai của Chu Văn Quềnh. Ngoài phim "Đất và người" Phú Đôn còn là gương mặt quen thuộc của điện ảnh Việt. Ngoài đời nghệ sĩ Phú Đôn giản dị hệt những vai diễn của anh - chất phác, mộc mạc pha chút hài hước. Mải mê công việc, tới 45 tuổi, Phú Đôn mới lập gia đình với người vợ kém nhiều tuổi. Dù chênh lệch tuổi tác nhưng Phú Đôn và vợ vẫn có cuộc sống êm ấm, hạnh phúc bên các thiên thần nhỏ.
Phú Đôn thường gắn với những vai diễn mộc mạc, chất phác
Nam diễn viên chụp ảnh cùng vợ và con trai
Cung huynh đệ dùng luận đoán tình cảm giữa các anh em và bản thân đương số, đồng thời xem xét đương số có được giúp đỡ hay không, cũng có thể luận đoán mối quan hệ với đồng nghiệp trong công việc.
Anh em có kẻ triều trung quý quyền.
Trong xã hội hiện đại, dùng Tử Vi Đẩu Số luận đoán Cung Huynh Đệ, thực ra có khuyết điểm rất lớn. Ở xã hội cổ đại, trong chế độ gia đình, anh em không tách ra ở riêng. Nên Tử Vi có thể dựa vào các sao của Cung Huynh Đệ để luận đoán khái quát toàn bộ mệnh vận của gia tộc.
Vì vậy ở tinh bàn, đối nhau với Cung Huynh Đệ là “Cung Nô Bộc” (Có người gọi là Cung Giao Hữu). Tương hội ở tam phương là Cung Điền Trạch và Cung Tật Ách. Từ số anh em, cho đến nô bộc nhiều hay ít, có đắc lực hay không. Rồi lại tham khảo các sao của Cung Điền Trạch, luận đoán xem có điền sản hay không. Biết gia trạch có hưng vượng hay không, thì mệnh vận của cả một gia tộc có thể biết đại khái.
Lại quan sát các sao của Cung Tật Ách để xem gia tộc có bệnh di truyền hay không, và có tai nạn hung hiểm hay không, thì tình hình càng rõ như chỉ bàn tay. Thời cổ đại một người phạm tội thì cả gia tộc bị liên lụy, cho nên quan sát Cung Tật Ách là rất quan trọng.
Xã hội hiện đại đã không còn chế độ đại gia đình, anh chị em mỗi người đều có gia đình riêng. Hơn nữa không còn tình trạng bị liên lụy người phạm tội trong gia đình. Cho nên quan sát Cung Huynh Đệ không có gì quan trọng, cổ nhân đã đặt ra một số phép tắc, cũng có thể nói là hoàn toàn không còn hợp thời.
Nhưng theo Vương Đình Chi, chúng ta vẫn có thể vận dụng tổ hợp các sao của Cung Huynh Đệ để luận đoán về người có cùng một xuất thân với đương số, và có quan hệ với đương số (theo cổ pháp, Cung Huynh Đệ cũng dùng để luận đoán về bạn “đồng môn” và bạn “đồng niên”).
Phàm Cung Huynh Đệ mà gặp Tả Phù, Hữu Bật, thì số anh chị em không chỉ dựa vào chính diệu để luận đoán là nhiều (như “Tử Vi, Thiên Phủ”. Chủ về anh chị em có ba người, nhưng gặp Tả Phù, Hữu Bật thì có trên ba người), nhưng lại có khả năng là anh em khác mẹ, cần phải xem xét kỹ các sao của Cung Phụ Mẫu, xem có xuất hiện tình hình tái hôn, ngoại hôn hay không mà định.
Có Sao Văn Xương, Sao Văn Khúc, Sao Thiên Khôi, Sao Thiên Việt, Sao Hóa Lộc, Sao Hóa Quyền, Sao Hóa Khoa, thì số anh chị em đều có thể dựa vào chính diệu để luận đoán là nhiều. Nhưng phải có “Đối Tinh” hội hợp mới có hiệu lực, hoặc cũng chủ về nhiều bạn đồng môn và nhiều người có cùng xuất thân.
Cung Huynh Đệ không gặp các sao phụ tá, nhưng Cung Mệnh gặp sao phụ tá tụ tập, cũng chủ về nhiều anh chị em.
Cung Huynh Đệ không nên gặp Hỏa Tinh, Linh Tinh, Kình Dương, Đà La, Địa Không, Địa Kiếp, vì chủ về anh chị em ở riêng nơi khác hoặc bất lợi (đồng sự hoặc đồng môn thì chủ về có đố kị, tranh chấp). Sát tinh nặng mà gặp thêm Thiên Hình, Hóa Kỵ. Chủ về có hình thương.
Cung Huynh Đệ gặp Lộc, Quyền, Khoa, chưa chắc chủ về anh chị em phú quý, có lúc chỉ chủ về nhiều anh chị em. Nhưng trong số anh chị em ắt sẽ có người có cảnh ngộ khá hơn đương số. Hoặc chủ về đồng sự có cùng một xuất thân thăng tiến nhanh hơn đương số.
Các sao phụ, tá, sát, hóa cùng đến Cung Huynh Đệ, cát hung lẫn lộn. Chủ về hòa hợp nhưng có “hình thương”. Hoặc chủ về hòa hợp mà không giúp đỡ lẫn nhau được. Hoặc chủ về anh chị em đông nhưng hình khắc, ở riêng, tranh chấp (giữa đồng sự tuy có trợ lực, nhưng lại có khuynh hướng kết bè kết đảng chống đối nhau.)
Đại hạn lưu niên Cung Huynh Đệ có sự cát hung, Nên Cổ Học khuyến cáo mọi người, ngoại trừ tham khảo bài này. Cần phải kiểm tra thêm tính chất của tinh hệ chính diệu tọa thủ Huynh đệ cung. Khi luận đoán về tình hình giữa đồng nghiệp với nhau, cần phải vận dụng một cách linh hoạt những điều thuật ở dưới đây.
Có anh lớn có thể nhờ vả, nương tựa (hoặc chủ về được đồng sự đề bạt), hoặc anh lớn rất giàu có. Thêm Tứ Sát và Địa Không, Địa Kiếp, thì khắc hại hoặc thiếu hòa hợp, nếu không, anh chị em sẽ phá tán, thất bại, suy sụp.
Anh chị em gần gũi bậc quyền quý. Gặp Thiên Khôi, Thiên Việt, Văn Xương, Văn Khúc, Tả Phù, Hữu Bật thì càng quý. Nhưng nếu gặp Tứ Sát, Địa Không, Địa Kiếp, Hình Kị thì chủ về hình khắc, hoặc trong anh chị em có người bị suy bại sự nghiệp. Lưu sát và Lưu kỵ nhập cung cũng nên đề phòng trong đại hạn hoặc lưu niên anh chị em bị hình khắc tổn thương hay phá tán, thất bại.
Gặp Tứ Sát, nếu Cung Phụ Mẫu có Hồng Loan, Thiên Hỷ, thì có thể là anh em khác mẹ, mà còn không đồng tâm.
Thiên Mã hội chiếu, anh chị em ở tứ tán, mỗi người một nơi.
Gặp Thiên Tướng, ba đến bốn anh chị em.
Phá Quân hội chiếu, cũng chủ về ba anh chị em nhưng có hình khắc, hoặc chia tài sản ra ở riêng, hoặc anh chị em khác mẹ sinh ra. Nếu Cung Phụ Mẫu tụ tập các sao đào hoa, lại gặp Hữu Bật thì càng có thể luận đoán có anh chị em khác mẹ.
Gặp Tả Phù, Hữu Bật, năm anh chị em trở lên.
Hội hợp Văn Xương Văn Khúc, thì năm hoặc bảy người. Thêm Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh, Thất Sát, thì anh chị em nên là số chẵn, nếu không sẽ có hình khắc.
Sao Thiên Cơ ở Cung Huynh Đệ. Chủ về ít anh chị em, nếu gặp sao phụ tá cát thì có thể tăng thêm số người.
Khi Sao Thiên Cơ nhập miếu thì hai người, gặp cát tinh thì có người hiển quý.
Có Cự Môn, hoặc Thiên Lương, hoặc Thái Âm hội chiếu, thì hai người.
Thiên Cơ lạc hãm thủ Cung Huynh Đệ, anh em bất hòa, có chủ kiến riêng, gặp Thiên Lương, Thiên Hình thì có tranh chấp, kiện tụng.
Nếu gặp Tứ Sát, Thiên Hình, Thiên Mã. Chủ về hình khắc, chia ly.
Thiên Cơ lạc hãm, gặp các sao Sát, Kỵ thì không có anh em, hoặc có hình khắc.
Thái Dương nhập miếu thì anh em ba người trở lên, gặp cát tinh hội hợp thì anh em chủ về quý.
Thái Dương lạc hãm và người sinh vào ban đêm, anh em phần nhiều có tranh chấp, bất hòa, chia rẽ, hoặc không giúp đỡ nhau được. Nếu gặp Tứ Sát, Địa Không, Địa Kiếp, Thiên Hình. Chủ về anh em có hình khắc, hoặc bản thân vì anh em mà bị tổn thương, họa hại một cách bất ngờ.
Phàm Thái Dương lạc hãm ở Cung Huynh Đệ, nên ở riêng, ở nơi khác càng tốt.
Các trường hợp trên nếu gặp thêm Tả Phù, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt thì cũng có thể tăng số anh chị em.
Sao Vũ Khúc ở cung Huynh Đệ về cơ bản chủ việc anh em không hòa hợp với nhau.
“Vũ Khúc Thiên Phủ” đồng độ ở hai cung Tí hoặc Ngọ, thủ cung huynh đệ, có sao cát nhiều mới chủ về hòa hợp, hơi gặp sát tinh thì chủ về anh em bằng mặt mà không bằng lòng.
“Vũ Khúc Thiên Phủ” đồng độ ở hai cung Tí hoặc Ngọ, có cát hóa cũng không được trợ lực, trừ khi cung mệnh gặp Tả Phụ, Hữu Bật, mới chủ về được anh em, bạn bè tương trợ. Gặp các sao sát, kị, hình, chủ về bị anh em, bạn bè gây lụy. Không gặp sao lộc, thì bị lợi dụng tranh đoạt.
Cho nên nếu thấy “Vũ Khúc Thiên Phủ” thủ cung huynh đệ, thông thường không nên hợp tác với người khác. Năm ứng nghiệm là đến các cung hạn “Thiên Cơ Cự Môn”, Phá Quân, “Tử Vi, Thiên Tướng” thủ cung huynh đệ.
“Vũ Khúc Tham Lang” đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi, được cát hóa, có sao cát, chủ về được anh em, bạn bè giúp đỡ, nhưng không được tranh quyền. Gặp các sao sát, kị, hình, thì trái lại, chủ về bản thân đương số là người hay giúp đỡ anh em, bạn bè. Ở cung Mùi tốt hơn ở cung Sửu.
“Vũ Khúc Tham Lang” đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi, thủ cung huynh đệ, có Hỏa Tinh, Linh Tinh đồng cung, không có các sao hình, kị, mà hai cung thân mệnh lại hội sao cát và được cát hóa, chủ về nhờ anh em, bạn bè mà hoạnh phát.
“Vũ Khúc Tham Lang” đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi, thủ cung huynh đệ, gặp các sao sát, kị, hình, mà các sao ở hai cung thân mệnh lại yếu, chủ về cuộc đời bị anh em, bạn bè kềm chế.
“Vũ Khúc Thiên Tướng” đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân, gặp cát tinh sẽ chủ được trợ lực, gặp sát tinh (hoặc “Hình kị giáp ấn”) thì vì chủ động giúp bạn bè mà bị liên lụy. Thường năm ứng nghiệm là cung hạn “Thiên Đồng Cự Môn” thủ cung huynh đệ.
“Vũ Khúc Thiên Tướng” đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân, lại chủ về được anh em hoặc bạn bè tương trợ về nghề nghiệp.
“Vũ Khúc Thiên Tướng” đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân, có nhiều sao đào hoa, lại gặp các sao sát, kị, thì người bạn đời dễ bị bạn bè của bản thân đương số quyến rũ, dụ dỗ.
“Vũ Khúc Thất Sát” đồng độ ở hai cung Mão hoặc Dậu, thủ cung huynh đệ, gặp sát tinh, chủ về giữa anh em, bạn bè có tranh chấp tiền bạc, gặp các sao phụ, tá cát, cát hóa, chủ về được trợ lực một thời gian ngắn.
“Vũ Khúc Thất Sát” đồng độ ở hai cung Mão hoặc Dậu, nếu hợp tác với người khác, cần phải đề phòng họ lộng quyền, xâm phạm lợi ích. Vì vậy không nên hợp tác.
“Vũ Khúc Thất Sát” đồng độ ở hai cung Mão hoặc Dậu, ứng nghiệm bất lợi thường là năm đến các cung hạn Thiên Cơ, Cự Môn, “Tử Vi Phá Quân”, Thiên Đồng, Thiên Lương thủ cung huynh đệ.
Vũ Khúc ở hai cung Thìn hoặc Tuất, gặp cát tinh, chủ về anh em, bạn bè hòa hợp, nhưng ít được trợ lực. Gặp các sao sát, kị, hình thì không được giúp đỡ, thậm chí còn bị liên lụy. Nếu Kình Dương, Đà La giáp Vũ Khúc Hóa Kỵ, thì chủ về vì anh em, bạn bè mà bản thân đương số bị thương tổn, hoặc hao tài rất lớn.
Vũ Khúc ở hai cung Thìn hoặc Tuất, gặp sát tinh, chủ về bị anh em, bạn bè đoạt quyền. Vì vậy không nên hợp tác. Ứng nghiệm bất lợi thường là năm đến cung hạn Vũ Khúc, Phá Quân, Thất Sát thủ cung huynh đệ.
“Vũ Khúc Phá Quân” ở hai cung Tị hoặc Hợi, thủ cung huynh đệ, dù gặp cát tinh, cũng không chủ về được anh em, bạn bè giúp đỡ, hợp tác cũng không lâu dài. Gặp các sao sát, kị, hình thì chủ về bị anh em, bạn bè gây trắc trở, nhưng giao du với người ngoại quốc (hay người ở phương xa), hoặc người ờ xứ khác, thì tình hình tốt hơn.
“Vũ Khúc Phá Quân” ở hai cung Tị hoặc Hợi, hội Liêm Trinh Hóa Kỵ và “Vũ Khúc, Phá Quân”, lại có Hỏa Tinh, Linh Tinh cùng bay đến, chủ về vì anh em hoặc bạn bè mà xảy ra tai nạn chảy máu. Năm ứng nghiệm thường là đến các cung hạn “Liêm Trinh, Thất Sát”, “Vũ Khúc Phá Quân” thủ cung huynh đệ. (Vương Đình Chi kể, ông từng gặp một trường hợp thực tế là bản thân đương số cho máu bạn bè.)
Hễ Vũ Khúc ở cung huynh đệ, gặp Kình Dương hoặc Hỏa Tinh đồng độ, đều chủ về tranh chấp tiền bạc. Có sát tinh Địa Không, Địa Kiếp đồng độ, chủ về ít anh em, bạn bè, bản thân đương số thường cảm thấy bị cô lập.
Thiên Đồng nhập miếu thì bốn người trở lên, hòa thuận nhưng ít giúp đỡ nhau.
Thiên Đồng lạc hãm thì hai người, anh em nhu nhược.
Liêm Trinh nhập miếu, anh chị em hai người, thông thường chủ về tình cảm hòa hợp.
Liêm Trinh hội các sao cát Tả Phù, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt, Thiên Quý, Thiên Phủ, anh chị em năm người, còn lại ba người.
Liêm Trinh gặp Tứ Sát, Địa Không, Địa Kiếp, Thiên Hình. Chủ về hình khắc, nạn tai, tật bệnh, hoặc bất hòa, nên ở riêng hay ở nơi khác.
Thiên Phủ thủ Cung Huynh Đệ. Chủ về nhiều anh em, năm người trở lên.
Khi Sao Thái Âm thủ Cung Huynh Đệ. Trường hợp Sao Thái Âm nhập miếu thì anh chị em năm người. Thái Âm ở hãm địa thì ba người, không đồng tâm. Có Thiên Cơ đồng độ thì hai người.
Sao Tham Lang ở cung huynh đệ, ngoại trừ hai cung Tị hoặc Hợi là Tham Lang ở hãm địa, trong các tình hình thông thường đều chủ về anh em hòa mục, cũng chủ về giao du rộng rãi. Nhưng nếu không được cát hóa và có sao cát, phần nhiều là bạn bè chơi bời ăn nhậu.
Tham Lang ở hai cung Tị hoặc Hợi là hãm địa, sao đôi mà gặp lẻ, còn gặp sao đào hoa, phần nhiều chủ về có anh em khác mẹ; gặp sát tinh, thì giữa anh em hay bạn tri giao dễ xảy ra oán trách, hoặc ý kiến khác nhau. Nếu Tham Lang Hóa Kị, chủ về bị gây phiền lụy.
Tham Lang thủ cung huynh đệ, nếu đồng độ với Hỏa Tinh, Linh Tinh, gặp Thiên Thọ, chủ về được anh em hoặc bạn hợp tác trợ lực, gặp các sao sát, kị, thì chủ vệ đột nhiên bị gây lụy, khi chuyện chưa xảy ra không có dấu hiệu gì báo trước.
Tham Lang ở cung huynh đệ hình thành cách cục “Phiếm thủy đào hoa”, bình sinh nhiều bạn bè tửu sắc, thường vì vậy mà bị gây lụy, thành cách cục “Phong lưu thải trượng ” cũng vậy.
Đối với Tham Lang ở hai cung Tí hoặc Ngọ, cát hung phần nhiều ứng nghiệm lúc đến các lưu niên “Thiên Đồng, Cự Môn”, Phá Quân thủ cung huynh đệ.
Đối với Tham Lang ở hai cung Dần hoặc Thân, cát hung phần nhiều ứng nghiệm lúc đến các lưu niên “Tử Vi, Thiên Tướng”, Phá Quân, Thất Sát thủ cung huynh đệ. Đối với Tham Lang ở hai cung Thìn hoặc Tuất, cát hung phần nhiều ứng nghiệm lúc đến các lưu niên Thiên Lương, Thiên Cơ, “Liêm Trinh, Thiên Tướng” thủ cung huynh đệ.
Tham Lang ở cung huynh đệ, rất ngại Vũ Khúc Hóa Kị và Tham Lang Hóa Kị tương chiếu, nếu lại gặp cách “Linh Xương Đà Vũ”, sẽ chủ về bị gây họa mà thất bại, hoặc dẫn đến tai nạn bất trắc.
Sao Cự Môn nhập Cung Huynh Đệ, trường hợp Cự Môn nhập miếu thì có hai người.
Khi Sao Cự Môn có Thái Dương đồng độ thì anh chị em ba người. Có thêm các sao Tả Phù, Hữu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt, Văn Xương, Văn Khúc, Ân Quang, Thiên Quý, Thiên Phúc hội hợp, và có Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa cùng đến thì chủ về trong anh em có người sáng lập được sự nghiệp.
Phàm Cự Môn thủ Cung Huynh Đệ, có Địa Không, Địa Kiếp, Đại Hao hội chiếu, phần nhiều bị anh em bóc lột. Có Tứ Sát, Âm Sát, Cô Thần, Quả Tú hội chiếu thì hình khắc, thị phi, tranh chấp. Cự Môn Hóa Kỵ cũng chủ về điều tiếng thị phi, hơn nữa còn chủ về nạn tai, tật bệnh, phá tán, hư hao. Gặp Thiên Nguyệt, các sao hình, hao thì chủ về vì anh em nạn tai, tật bệnh mà hao tài.